http://cdyhanam.edu.vn

Bệnh máu khó đông hemophilia là gì?

Bệnh máu khó đông, bệnh ưa chảy máu hay bệnh hemophilia (heamophilia) là tên gọi chung chỉ tình trạng rối loạn đông máu, trong đó cơ thể suy giảm khả năng tạo cục máu đông, một bước khởi đầu trong quá trình cầm máu. Hệ quả là người bệnh sẽ bị chảy máu trong thời gian dài hơn khi gặp chấn thương, dễ bị bầm tím và tăng khả năng xuất huyết khớp, não.Những người bị nhẹ có thể chỉ bị khó đông với các vết thương lớn như tai nạn hay phẫu thuật, trong khi chảy máu trong khớp có khả năng gây tổn thương vĩnh viễn; xuất huyết não dẫn đến đau đầu, co giật, mất ý thức.

Có hai loại bệnh máu khó đông chính: bệnh máu khó đông A (hemophilia A, do thiếu hoạt tính của yếu tố đông máu VIII) và bệnh máu khó đông B (hemophilia B, do thiếu hoạt tính của yếu tố IX). Tỉ lệ bệnh máu khó đông A là khoảng 1/5.000–10.000, trong khi bệnh máu khó đông B xuất hiện ở 1/40.000 nam giới khi sinh;  nữ giới hiếm khi bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Bệnh máu khó đông hemophilia là gì

Bệnh máu khó đông hemophilia là gì

Máu khó động C (hemophilia C) cũng đôi khi được nhắc đến. Đây là một dạng hiếm hơn A và B, liên quan đến yếu tố đông máu XI, do gen trên nhiễm sắc thể thường quy định. Máu khó đông C cũng không hẳn là bệnh di truyền dạng lặn, vì người mang một alen bất thường cũng có biểu hiện chảy máu quá mức.

Nguyên nhân gây bệnh máu khó đông

Bệnh máu khó đông hemophilia phát sinh do thiếu hoạt tính các yếu tố VIII và IX. Hai protein này được sản xuất nhờ hai gen nằm trên nhiễm sắc thể X (NST giới tính).

Hemophilia A đặc trưng bởi các đột biến tại nhiễm sắc thể Xq28 và gây ra thiếu hoạt động chức năng của yếu tố VIII; các đột biến này có thể là đảo đoạn, mất đoạn, đột biến sai nghĩa, vô nghĩa hoặc dịch khung. Đảo đoạn chịu trách nhiệm cho 45% các ca hemophilia nặng; đột biến vô nghĩa hay các đột biến dịch khung (đột biến làm tạo ra protein nhỏ hơn bình thường) cũng đóng góp vào các trường hợp nặng. Đột biến mất đoạn gây ra kiểu hình bệnh trung bình. Đột biến sai nghĩa chủ yếu đóng góp vào kiểu hình bệnh nhẹ hoặc trung bình.

Homophilia B đặc trưng bởi các đột biến từ Xq27.1-q27.2, làm thay đổi protein chức năng sản xuất bởi gen yếu tố IX. Đột biến này thường làm cho thiếu protein chức năng hoặc sản xuất protein mất chức năng. Các đột biến chịu trách nhiệm cho bệnh máu khó đông B bao gồm mất đoạn gen lớn, đột biến vô nghĩa và đột biến dịch khung.

Máu khó đông tự phát có thể liên quan đến ung thư, bệnh tự miễn hoặc thai kỳ.

Bệnh máu khó đông di truyền như thế nào?

Thông thường, phụ nữ sở hữu hai nhiễm sắc thể X và nam giới có một nhiễm sắc thể X và một nhiễm sắc thể Y. Vì các đột biến gây ra bệnh là đột biến dạng lặn liên kết X, một phụ nữ mang khuyết tật trên một nhiễm sắc thể X có thể không bị ảnh hưởng, vì alen trội tương đương trên nhiễm sắc thể còn lại sẽ tự biểu hiện để tạo ra các yếu tố đông máu cần thiết. Do đó, những người nữ dị hợp tử chỉ là những người mang gen di truyền. Tuy nhiên, nhiễm sắc thể Y ở nam giới không có gen cho các yếu tố VIII hoặc IX. Nếu các gen chịu trách nhiệm sản xuất yếu tố VIII hoặc yếu tố IX hiện diện trên nhiễm sắc thể X của nam giới bị đột biến thì không có gen tương đương nào trên nhiễm sắc thể Y để bù đắp, do đó gen thiếu hụt không được che giấu và rối loạn sẽ gây hậu quả.

Một người mẹ mang gen bệnh có 50% khả năng truyền nhiễm sắc thể X bị lỗi cho con gái, trong khi người bố bị bệnh sẽ luôn truyền gen bệnh cho con gái của mình. Con trai không được thừa hưởng gen khiếm khuyết từ cha.

Nếu nam mắc bệnh và có con với nữ không mang gen bệnh thì con gái của anh ta sẽ là người lành mang gen bệnh máu khó đông. Các con trai của ông, tuy nhiên, sẽ không bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này.

Cũng như tất cả các rối loạn di truyền, mỗi người cũng có thể gặp phải bệnh này cách tự nhiên thông qua đột biến mới ở một trong các giao tử của bố mẹ (máu khó đông mắc phải/tự phát), thay vì di truyền. Đột biến tự phát chiếm khoảng 33% tổng số các trường hợp bệnh máu khó đông A, con số này là khoảng 30% tổng số trường hợp mắc bệnh máu khó đông B.

Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh máu khó đông hemophilia

Các triệu chứng đặc trưng thay đổi tùy theo mức độ nghiêm trọng. Các triệu chứng chung là các đợt xuất huyết nội và ngoại. Những người mắc bệnh máu khó đông nặng hơn bị chảy máu nghiêm trọng hơn và thường xuyên hơn. Các triệu chứng phổ biến dễ để ý thấy nhất bao gồm:

  • Chảy máu không rõ nguyên nhân hoặc chảy máu nhiều do vết cắt hoặc chấn thương, hoặc sau khi phẫu thuật hoặc làm răng.
  • Nhiều vết thâm lớn hoặc sâu.
  • Chảy máu bất thường sau khi tiêm phòng.
  • Đau, sưng hoặc căng khớp.
  • Có máu trong nước tiểu hoặc phân.
  • Chảy máu cam mà không rõ nguyên nhân.
  • Ở trẻ sơ sinh, cáu kỉnh không rõ nguyên nhân.

Loại chảy máu trong đặc trưng nhất là chảy máu khớp khi máu đi vào các khoang khớp. Điều này phổ biến nhất với bệnh máu khó đông nặng và có thể xảy ra tự phát (không có chấn thương rõ ràng). Nếu không được điều trị kịp thời, chảy máu khớp có thể dẫn đến tổn thương và biến dạng khớp vĩnh viễn.[16] Chảy máu vào các mô mềm như cơ và mô dưới da ít nghiêm trọng hơn nhưng có thể dẫn đến tổn thương và cần điều trị.

Xuất huyết nội hộp sọ là một biến chứng nghiêm trọng do sự tích tụ áp lực bên trong hộp sọ, dẫn đến mất phương hướng, buồn nôn, mất ý thức, tổn thương não và tử vong.

Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh máu khó đông hemophilia

Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh máu khó đông

Bệnh khớp máu khó đông được đặc trưng bởi viêm màng hoạt dịch tăng sinh mãn tính và phá hủy sụn.Nếu tình trạng chảy máu trong khớp không được dẫn lưu sớm, nó có thể gây ra hiện tượng chết các tế bào sụn và ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp các proteoglycan. Lớp màng hoạt dịch phì đại và mỏng manh trong khi cố gắng loại bỏ lượng máu quá nhiều có thể dễ bị tái chảy máu, dẫn đến một vòng luẩn quẩn của tụ máu khớp – viêm bao hoạt dịch – tụ máu khớp. Ngoài ra, sự lắng đọng sắt trong màng hoạt dịch có thể gây ra phản ứng viêm kích hoạt hệ thống miễn dịch và kích thích hình thành mạch, dẫn đến phá hủy sụn và xương.

Trẻ em mắc bệnh máu khó đông từ nhẹ đến trung bình có thể không có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào khi sinh. Bố mẹ cần chú ý các triệu chứng đầu tiên ơ trẻ như là những vết bầm tím và tụ máu lớn và thường xuyên do va đập và ngã khi chúng tập đi. Thông thường, dấu hiệu đầu tiên của bệnh máu khó đông rất nhẹ là chảy máu nhiều do thủ thuật nha khoa, tai nạn hoặc phẫu thuật.

Chẩn đoán, xét nghiệm bệnh hemophilia như thế nào?

Trước khi mang thai

Tư vấn và xét nghiệm di truyền có thể giúp xác định nguy cơ truyền bệnh cho một đứa trẻ. Điều này có thể liên quan đến việc xét nghiệm mẫu mô hoặc máu để tìm các dấu hiệu của đột biến gen gây ra bệnh máu khó đông.

Trong khi mang thai

Phụ nữ mang thai có tiền sử mắc bệnh máu khó đông trong gia đình có thể xét nghiệm gen bệnh máu khó đông. Các xét nghiệm như vậy bao gồm:

  • Lấy mẫu nhung mao màng đệm (CVS): thường trong tuần 11–14 của thai kỳ.
  • Chọc dò nước ối, thường là trong tuần 15–20 của thai kỳ.
  • Phương pháp xét nghiệm trước sinh không xâm lấn  (NIPT) sử dụng digital PCR cũng đã được phát triển.[21]

Sau khi sinh

Nếu nghi ngờ mắc bệnh máu khó đông sau khi đứa trẻ được sinh ra, xét nghiệm máu thường có thể xác định chẩn đoán. Có thể xét nghiệm máu từ dây rốn khi sinh nếu tiền sử gia đình mắc bệnh máu khó đông. Xét nghiệm máu cũng sẽ có thể xác định trẻ mắc bệnh máu khó đông A hay B, và mức độ nghiêm trọng của nó.

Các xét nghiệm sàng lọc được dùng để xác định liệu máu có đông một cách bình thường hay không. Các xét nghiệm đó bao gồm:

  • Đếm tế bào tổng số (CBC).
  • Xét nghiệm thời gian thromboplastin một phần hoạt hóa (APTT),
  • Xét nghiệm thời gian prothrombin (PT)
  • Xét nghiệm fibrinogen.

Có thể chữa khỏi bệnh ưa chảy máu không?

Không có cách chữa trị lâu dài cho căn bệnh này. Điều trị và ngăn ngừa các đợt chảy máu được thực hiện chủ yếu bằng cách bổ sung các yếu tố đông máu bị thiếu.[3]

Các yếu tố đông máu

Yếu tố đông máu thường không cần thiết nếu bị bệnh máu khó đông thể nhẹ. Trong bệnh máu khó đông ở mức trung bình, các yếu tố đông máu thường chỉ cần thiết khi xảy ra chảy máu hoặc để ngăn ngừa chảy máu trong một số trường hợp nhất định.[11] Trong trường hợp bị bệnh máu khó đông nặng, việc áp dụng phòng ngừa bệnh máu khó đông thường được khuyến cáo hai hoặc ba lần một tuần và có thể thực hiện suốt đời. Điều trị nhanh chóng các đợt chảy máu làm giảm tổn thương cho cơ thể.

Yếu tố VIII được sử dụng trong bệnh máu khó đông A và yếu tố IX trong bệnh máu khó đông B. Yếu tố đông máu thay thế có thể được phân lập từ huyết thanh người, từ tái tổ hợp hoặc cả hai. Một số người sinh kháng thể chống lại các yếu tố đông máu thay thế được truyền cho họ, vì vậy lượng yếu tố đông máu phải được tăng lên hoặc phải cung cấp các sản phẩm thay thế không phải của con người, chẳng hạn như yếu tố VIII của lợn

Desmopressin (DDAVP) có thể được sử dụng cho những người mắc bệnh máu khó đông A nhẹ.[11] Có thể cho axit tranexamic hoặc axit epsilon aminocaproic cùng với các yếu tố đông máu để gia cố cục máu đông, làm máu dễ đông hơn.[11]

Thuốc giảm đau, steroid và vật lý trị liệu có thể được sử dụng để giảm đau và giảm sưng ở khớp. Ở những người bị bệnh ưa chảy máu A nghiêm trọng đã được bổ sung yếu tố VIII, emicizumab có thể có tác dụng bổ trợ.

Các phương pháp điều trị khác nhau được sử dụng để giúp những người mắc bệnh ưa chảy máu, ngoài các yếu tố đông máu bình thường. Thường thì phương pháp điều trị hiệu quả nhất là corticosteroid loại bỏ các tự kháng thể. Là một phương pháp điều trị phụ, cyclophosphamide và cyclosporine được sử dụng và được chứng minh là có hiệu quả đối với những người không đáp ứng với các phương pháp điều trị steroid.

Trong một số trường hợp hiếm hoi, liều cao Ig miễn dịch hoặc chất hấp thụ miễn dịch tiêm tĩnh mạch có tác dụng giúp kiểm soát chảy máu thay vì chống lại các tự kháng thể.

Bài viết về bệnh máu khó đông xin tạm dừng tại đây. Thông qua bài viết hi vọng các bạn sớm nhận ra được triệu chứng cũng như cách chữa trị hiệu quả nhất.

 
 

Không Có Bình Luận

Hãy là người đầu tiên để lại bình luận.

Đăng Bình Luận


 
 

Tin Liên Quan